Nếu trong 3 tháng đầu, sản phụ mắc căn bệnh này mà không được phát hiện để can thiệp kịp thời thì nguy cơ sảy thai lên đến 65-80%.
Chị Kim Dung mang thai lần đầu được 24 tuần t.uổi. Trong một lần đi khám thai định kỳ, chị Dung đã bàng hoàng khi nghe bác sỹ ở phòng khám thai yêu cầu phải vào bệnh viện để khám lại chuyên khoa Sản để đ.ánh giá lại tình trạng thai nhi.
Sau khi được các bác sỹ thăm khám, chị Dung lại nghẹn thắt tim khi nghe bác sỹ cho biết khả năng phải đình chỉ thai khá cao do thiếu ối trầm trọng, thai nhi bị tử cung bó chặt, nguy cơ thai lưu là rất cao.
Phương pháp điều trị truyền ối có thể giúp sản phụ thiếu ối bảo vệ được con của mình
Theo BSCKI Nguyễn Thị Sim – Phó giám đốc Trung tâm Sàng lọc chẩn đoán trước sinh và sơ sinh bệnh viện Phụ Sản Hà Nội, nước ối là chất lỏng bao quanh thai nhi, là môi trường lỏng giúp thai nhi phát triển trong suốt quá trình mang thai.
Nước ối có vai trò vô cùng quan trọng như giúp bảo vệ thai nhi khỏi bị chấn thương khi ở trong bụng mẹ, là môi trường vô khuẩn tránh được các n.hiễm t.rùng đặc biệt ở phổi, dinh dưỡng cho thai nhi, hỗ trợ giữ cho thai nhi có thân nhiệt ổn định thích hợp. Nước ối đa phần có nguồn gốc từ thai nhi, do sự bài xuất nước tiểu được lặp đi lặp lại tạo ra một lượng nước ối phù hợp.
Bệnh thiểu ối là hiện tượng lượng nước ối ít hơn mức sinh lý bình thường, khi chỉ số ối AFI nhỏ hơn 5cm và màng ối còn nguyên vẹn. Thiểu ối tiềm ẩn những nguy cơ như thiểu sản phổi, chèn ép dây rốn, khoèo chi… Nặng hơn là tình trạng cạn ối khi lượng nước ối đo được qua siêu âm (chỉ số AFI) nhỏ hơn 3cm
Thiếu ối đa phần xuất hiện ở những thai quá ngày sinh, thai chậm phát triển trong tử cung, một số ít xuất hiện sớm trong những tháng đầu thai kỳ trường hợp này tiên lượng thường xấu hơn, thường liên quan đến bất thường của thai nhi. Thiểu ối tiềm ẩn nhiều nguy cơ vì vậy việc phát hiện sớm giúp cho quá trình điều trị tiên lượng tốt.
Thiểu ối xuất hiện ở mỗi giai đoạn khác nhau của thai kỳ thì tiềm ẩn những nguy cơ khác nhau: Thiểu ối trong 3 tháng đầu nguy cơ sảy thai cao chiếm 65-80%; Thiểu ối trong 3 tháng giữa nguy cơ dị tật thai cao; Thiểu ối trong 3 tháng cuối nguy cơ thai suy dinh dưỡng cao.
Theo Bác sĩ CKII Nguyễn Thu Hoài, Khoa Sản, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec, có 4 nguyên nhân chính gây ra thiểu ối :
– Vỡ ối , rỉ ối trước chuyển dạ: Do màng ối bị rách gây nước ối thoát ra ngoài từ đó dẫn đến thiểu ối. Việc chẩn đoán vỡ ối, rỉ ối dựa trên khai thác triệu chứng ra nước, ra dịch â.m đ.ạo, bệnh nhân cần được bác sỹ thăm khám, test kiểm tra nước ối trong dịch â.m đ.ạo (test quỳ, amnisure..), xét nghiệm m.áu để đ.ánh giá tình trạng n.hiễm t.rùng .
– Chức năng tử cung – bánh nhau bị suy giảm gây ra thai chậm phát triển và cạn ối kèm theo, chẩn đoán dựa vào siêu âm chỉ số trở kháng PI Doppler động mạch tử cung và/ hoặc động mạch rốn cao và có sự tái phân bố tuần hoàn thai nhi.
– Bất thường hệ tiết niệu thai nhi: Bất sản thận 2 bên, thận đa nang hoặc thận nhiều nang, tắc nghẽn niệu quản, hội chứng van niệu đạo sau, suy chức năng thận…. Phát hiện bằng siêu âm, xét nghiệm m.áu tĩnh mạch rốn thai nhi.
– Bất thường nhiễm sắc thể thai nhi: Chẩn đoán dựa vào chọc ối xét nghiệm nhiễm sắc thể đồ hoặc Micro array nếu siêu âm thai có hình ảnh bất thường hoặc thai nhi chậm phát triển.
Trước đây, đa phần các bác sĩ sẽ chỉ định chấm dứt thai kỳ. Tuy nhiên, hiện đã có phương pháp điều trị truyền ối. Đây là kỹ thuật đưa dịch đẳng trương vô khuẩn vào buồng ối để tăng thể tích nước ối cho bào thai. Tuy nhiên, việc này chỉ có thể hiệu quả khi sản phụ được phát hiện và can thiệp kịp thời.
Trước mang thai bao lâu cần tiêm vaccine phòng Rubella?
Mẹ bầu mắc Rubella có nguy cơ sảy thai, thai lưu, thai nhi có nguy cơ dị tật bẩm sinh nghiêm trọng. Vì vậy nên tiêm phòng trước khi mang thai.
Phụ nữ nên tiêm 1 mũi Sởi – Quai bị – Rubella (MMR) trước khi mang thai 3 tháng
Hỏi:
Tôi mới lập gia đình và dự kiến sinh con trong năm Tân Sửu. Tuy nhiên, tôi nghe nói virus Rubella rất nguy hiểm cho thai nhi, vậy khi nào cần tiêm phòng loại vaccine này, thưa bác sỹ?
Mai Linh (Hà Nội)
Trả lời:
Nhiễm virus Rubella gây hậu quả nghiêm trọng nhất khi người mẹ bị nhiễm bệnh sớm trong thai kỳ, đặc biệt là trong 12 tuần đầu. Rubella lây truyền qua đường hô hấp, thời gian ủ bệnh khoảng 2 – 3 tuần. Nhiễm Rubella ở mẹ thường không có triệu chứng hoặc triệu chứng nhẹ như: Đau đầu, viêm màng phổi và viêm hạch, sau đó là phát ban.
Nguy cơ lây truyền sang thai nhi, có tỷ lệ 90% nếu mẹ nhiễm trước 12 tuần; Từ 12 – 16 tuần, tỷ lệ còn 55% và sau 16 tuần, tỷ lệ còn 34%.
Mẹ bầu mắc Rubella có nguy cơ sảy thai hoặc thai lưu và thai nhi có nguy cơ bị dị tật bẩm sinh nghiêm trọng. Nguy cơ mắc dị tật bẩm sinh tùy thuộc t.uổi thai lúc nhiễm: Tỷ lệ 90% nếu nhiễm trước 12 tuần; Từ 13 – 14 tuần, tỷ lệ giảm xuống còn 30 – 40%; Từ 15 – 16 tuần, tỷ lệ còn 20%; Sau 20 tuần thai nhi hiếm gặp dị tật.
Nếu thai nhi mắc hội chứng Rubella bẩm sinh (là tình trạng xảy ra ở em bé đang phát triển trong bụng bị lây từ mẹ bị nhiễm virus Rubella) sẽ có nguy cơ mất thính giác, mất khả năng học tập, dị tật tim và khiếm khuyết mắt. Nhiều khiếm khuyết và ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương, mắt và tim chỉ xuất hiện khi lây nhiễm xảy ra trước 16 tuần trong thai kỳ. Các hậu quả khác bao gồm thai chậm phát triển, gan lách to, vàng da, ban xuất huyết giảm tiểu cầu, thiếu m.áu và phát ban.
Nhiều trẻ sơ sinh mắc hội chứng Rubella bẩm sinh gặp các biểu hiện muộn, bao gồm nội tiết – tiểu đường tuýp 2, điếc khởi phát muộn, dị tật mắt và các vấn đề về thần kinh. Bạn có thể tiêm 1 mũi Sởi – Quai bị – Rubella (MMR) trước khi mang thai 3 tháng.