Nếu nghi ngờ b.ị đ.âm bởi kim tiêm nghi nhiễm HIV, cần bình tĩnh, rửa sạch vết thương, tuyệt đối không cố nặn m.áu ra, đến ngay cơ sở y tế.
Ảnh minh họa
Bác sĩ chuyên khoa 2 Nguyễn Thành Dũng, Bệnh viện quận Thủ Đức, cho biết khi bị người lạ đ.âm kim tiêm hoặc dẫm phải vật sắc nhọn có dính m.áu, người b.ị đ.âm xem là có khả năng nhiễm HIV (phơi nhiễm). Việc xử trí ban đầu là rất cần thiết và điều trị dự phòng phơi nhiễm là không thể bỏ qua.
Thông thường trong trường hợp này, nạn nhân có tâm lý sợ hãi nên cố gắng nặn m.áu ra càng nhiều càng tốt. Theo bác sĩ Dũng, cách xử trí này hoàn toàn sai. Nắn bóp vết đ.âm vô tình tạo ra thêm những tổn thương viêm, làm tăng khả năng virus xâm nhập vào cơ thể.
Do vậy, bác sĩ khuyên trong bất kỳ tình huống bị tấn công bởi kim tiêm, dù có dính m.áu HIV hay không, điều đầu tiên cần nhớ là thật bình tĩnh để xử trí đúng cách. Dù kim tiêm chứa HIV thì virus cần có thời gian mới xâm nhập được vào cơ thể. Hơn nữa, điều trị dự phòng sau phơi nhiễm giúp giảm đáng kể nguy cơ lây nhiễm.
“Không phải tất cả trường hợp b.ị đ.âm kim tiêm dính m.áu HIV đều dẫn đến lây nhiễm bệnh”, bác sĩ Dũng nhấn mạnh.
Cách xử trí vết thương đúng là nhanh chóng dị vật gây tổn thương, m.áu c.hảy ra khỏi cơ thể (nếu có). Rửa ngay vết thương dưới vòi nước. Tránh cầm m.áu hoặc bịt chặt vết thương ngay, nên để vết thương tự chảy trong thời gian ngắn, không nặn bóp vết thương. Sau đó, rửa kỹ lại vết thương bằng xà phòng và nước sạch.
Khi đến cơ sở y tế, người phơi nhiễm sẽ được đ.ánh giá nguy cơ lây nhiễm HIV. Bác sĩ Dũng nói, nếu da có tổn thương nông, m.áu không chảy hoặc chảy ít m.áu; hoặc m.áu và chất dịch cơ thể của người có HIV b.ắn vào vùng niêm mạc không bị tổn thương, viêm loét, thì nguy cơ lây nhiễm thấp.
Riêng trường hợp da nạn nhân có tổn thương sâu, rộng, chảy nhiều m.áu; hoặc m.áu và chất dịch cơ thể của người có HIV b.ắn vào các vùng da, niêm mạc bị tổn thương viêm loét rộng có sẵn thì có nguy cơ lây nhiễm cao.
Nhân viên y tế sẽ thực hiện xét nghiệm m.áu để kiểm tra xem người bị nạn đã nhiễm HIV chưa. Việc điều trị có thể bắt đầu ngay khi chưa có kết quả xét nghiệm. Tuy nhiên, nếu kết quả xét nghiệm HIV dương tính, tức người bị nạn đã nhiễm HIV từ trước, thì phải dừng điều trị phơi nhiễm ngay.
Xét nghiệm HIV lại sau 3 tháng kể từ thời điểm bị phơi nhiễm hoặc có yếu tố nguy cơ. Nếu kết quả xét nghiệm là âm tính, có thể yên tâm rằng không bị lây nhiễm HIV trong tình huống bị nạn đó.
Bác sĩ Dũng khẳng định, điều trị dự phòng sau phơi nhiễm HIV hiệu quả bảo vệ rất cao, lên đến 90-95% trong vài giờ đầu và duy trì trong khoảng 72 giờ tính từ thời điểm phơi nhiễm. Hiệu quả này giảm dần theo thời gian đến viện điều trị sau khi b.ị đ.âm.
Do vậy, người bị phơi nhiễm cần nhanh chóng đến cơ sở y tế để được điều trị càng sớm càng tốt, không nên trễ quá thời gian cho phép là 72 giờ. Thời gian điều trị dự phòng phơi nhiễm phải kéo dài liên tục trong 28 ngày. Thuốc điều trị là thuốc uống, sử dụng phối hợp ba loại thuốc kháng siêu vi theo hướng dẫn của Bộ Y tế.
Một số lưu ý khi dùng thuốc điều trị dự phòng HIV mà người phơi nhiễm cần nhớ là tuân thủ nghiêm ngặt phác đồ điều trị, tuyệt đối không tự ý ngưng thuốc khi chưa có ý kiến bác sĩ. Thuốc kháng virus có thể gây ra một số tác dụng phụ trong những ngày đầu, sau đó cơ thể sẽ quen dần.
Những người có nguy cơ cao mắc loại virus gây bệnh nguy hiểm cho gan
Viêm gan C tại Việt Nam có tỉ lệ mắc vào khoảng 4% dân số và ngày càng gia tăng.
Đây là căn bệnh nguy hiểm bởi những biểu hiện của nó không rõ ràng. Nếu không đi khám, rất khó để phát hiện bệnh nếu chỉ bằng triệu chứng.
Viêm gan C là một căn bệnh truyền nhiễm lây qua 3 con đường là: đường m.áu, từ mẹ sang con (hiếm gặp) và quan hệ t.ình d.ục không an toàn. Những người tiếp xúc với các con đường này một cách không an toàn sẽ là người có nguy cơ mắc viêm gan C cao hơn, bao gồm:
– Người được cấy ghép nội tạng hoặc dùng chung ống dịch từ những người bị viêm gan C.
– Những người chạy thận nhân tạo.
– Những người quan hệ t.ình d.ục không an toàn.
– Những người tiêm chích m.a t.úy.
– Nhân viên y tế có tiếp xúc thường xuyên với bệnh phẩm có chứa virus viêm gan C như: kim tiêm, máy lọc thận hoặc m.áu bị nhiễm bệnh.
– Trẻ được sinh ra từ mẹ bị viêm gan C.
– Những người có xỏ lỗ, xăm mình bằng các dụng cụ không được khử trùng triệt để.
Vấn đề đáng quan ngại là hầu hết bệnh nhân mắc viêm gan C không biết rằng bản thân đang mang virus. Do đó, việc phòng ngừa lây lan không được quan tâm dẫn đến nguy hại cho sức khỏe của những người liên quan. Khi không phát hiện bệnh sớm, người bệnh không có dấu hiệu lâm sàng trong khi gan vẫn đang bị tấn công. Người bị viêm gan C vì thế dễ dẫn đến các biến chứng nguy hiểm như suy gan, xơ gan, ung thư gan hơn.
Hiểu về những trường hợp có nguy cơ mắc viêm gan C cao hơn không chỉ giúp cho mỗi người tự bảo vệ sức khỏe của mình mà còn tránh gây nguy hại đến sức khỏe của những người thân xung quanh.