Trứng là một thực phẩm rất bổ dưỡng. Tuy nhiên trứng chứa nhiều cholesterol nên nhiều người thắc mắc liệu có nên sử dụng trứng khi mắc gan nhiễm mỡ?
Gan nhiễm mỡ xảy ra khi hàm lượng mỡ tích lũy trong gan lớn hơn 5% trọng lượng gan. Do vậy ở bệnh gan nhiễm mỡ, tất cả những tác nhân làm tăng sự tích tụ mỡ ở gan đều có thể gây bất lợi cho gan và khiến bệnh trở nên nghiêm trọng hơn.
Trứng là thực phẩm có hàm lượng cao cholesterol. Một quả trứng lớn có thể chứa đến 212mg cholesterol, rất nhiều so với hầu hết các loại thực phẩm khác. Nguồn cholesterol trong thức ăn có ảnh hưởng nhất định đến lượng cholesterol trong m.áu. Chính lượng cholesterol cao của trứng làm nhiều bệnh nhân gan nhiễm mỡ e ngại với loại thực phẩm này.
Tuy nhiên, trứng chứa nhiều vitamin và khoáng chất cần thiết cho cơ thể, cung cấp protein chất lượng cao, chất béo tốt và rất nhiều dinh dưỡng khác. Đặc biệt các axit amin có trong trứng là những loại axit amin thiết yếu cần thiết cho sự tổng hợp protein mà cơ thể không thể tự sản xuất, hơn nữa trứng lại là thực phẩm có hàm lượng calo thấp nên rất tốt cho sức khỏe và cân nặng. Không những thế, nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy rằng trứng có khả năng cải thiện tình trạng cholesterol trong cơ thể khi làm tăng lượng cholesterol tốt (HDL) và có xu hướng làm thay đổi các cholesterol gây hại (LDL), đồng thời làm giảm sự đề kháng insulin trong cơ thể.
Do vậy, loại bỏ hoàn toàn trứng ra khỏi thực đơn hàng ngày không phải là lựa chọn sáng suốt cho sức khỏe. Trứng với hàm lượng chất béo xấu thấp và dinh dưỡng cao là thực phẩm nên được thêm vào chế độ ăn uống cân bằng, kể cả với bệnh nhân gan nhiễm mỡ.
Tuy nhiên tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe cụ thể của mỗi người để lựa chọn gia giảm khẩu phần phù hợp và chế biến trứng theo cách lành mạnh như luộc, nấu, tránh việc nạp thêm calo không cần thiết vào cơ thể.
13 cách mà nước ngọt có đường gây hại cho sức khỏe của bạn
Sử dụng đồ uống có đường quá mức sẽ gây hại cho sức khỏe của bạn, đặc biệt là các loại nước như soda có đường, nước trái cây, cà phê có độ ngọt cao và các nguồn đường lỏng khác.
1. Đồ uống có đường có liên quan chặt chẽ đến việc tăng cân
Sucrose hoặc đường ăn cung cấp một lượng lớn đường đơn fructose. Fructose không làm giảm hormone đói ghrelin hoặc kích thích cảm giác no giống như glucose, loại đường hình thành khi bạn tiêu hóa thức ăn giàu tinh bột. Do đó, khi bạn tiêu thụ đường lỏng, bạn thường thêm nó lên trên tổng lượng calo của mình, bởi vì đồ uống có đường không làm cho bạn cảm thấy no.
Trong một nghiên cứu, những người uống nước ngọt có đường cùng với chế độ ăn uống hiện tại của họ đã tiêu thụ nhiều hơn 17% calo so với trước đây.
Tác hại của nước ngọt có đường từ các nghiên cứu cho thấy, những người uống đồ uống có đường thường xuyên sẽ tăng cân hơn những người không uống..
Trong một nghiên cứu ở t.rẻ e.m, thực hiện uống ly nước ngọt hàng ngày có liên quan đến việc tăng 60% nguy cơ béo phì.
Trên thực tế, đồ uống có đường là một trong những khía cạnh gây béo phì nhất của chế độ ăn uống hiện đại.
2. Một lượng lớn đường được biến thành chất béo trong gan
Đường ăn (sucrose) và xi-rô ngô có hàm lượng fructose cao bao gồm 2 phân tử – glucose và fructose với lượng gần bằng nhau.
Glucose có thể được chuyển hóa bởi mọi tế bào trong cơ thể, trong khi fructose chỉ có thể được chuyển hóa bởi gan.
Đồ uống có đường là cách dễ nhất và phổ biến nhất để tiêu thụ quá nhiều đường fructose. Khi bạn tiêu thụ quá nhiều, gan của bạn sẽ trở nên quá tải và biến fructose thành chất béo.
Một số chất béo được vận chuyển dưới dạng chất béo trung tính trong m.áu và 1 phần của nó vẫn nằm trong gan của bạn. Theo thời gian, điều này có thể góp phần gây ra bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu.
Đường ăn (sucrose) và xi-rô ngô có hàm lượng fructose cao bao gồm 2 phân tử – glucose và fructose với lượng gần bằng nhau
3. Đường làm tăng sự tích tụ mỡ ở bụng
Ăn nhiều đường có liên quan đến tăng cân. Đặc biệt, đường fructose có liên quan đến sự gia tăng đáng kể chất béo nguy hiểm xung quanh bụng và các cơ quan của cơ thể – mỡ nội tạng hoặc mỡ bụng.
Mỡ bụng dư thừa có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 và bệnh tim. Trong một nghiên cứu kéo dài 10 tuần, 32 người khỏe mạnh tiêu thụ đồ uống được làm ngọt bằng đường fructose hoặc glucose. Những người tiêu thụ glucose có sự gia tăng chất béo da – không liên quan đến bệnh chuyển hóa – trong khi những người tiêu thụ đường fructose thấy mỡ bụng của họ tăng lên đáng kể.
4. Soda có đường có thể gây ra tình trạng kháng insulin
Hormone insulin điều khiển glucose từ m.áu vào tế bào của cơ thể. Khi bạn uống soda có đường, các tế bào của bạn có thể trở nên kém nhạy cảm hơn hoặc kháng lại tác động của insulin.
Khi điều này xảy ra, tuyến tụy của bạn phải tạo ra nhiều insulin hơn để loại bỏ glucose khỏi dòng m.áu. Do đó, mức insulin trong m.áu sẽ tăng đột biến. Tình trạng này được gọi là kháng insulin.
Kháng insulin được cho là nguyên nhân chính dẫn đến hội chứng chuyển hóa – một bước đệm dẫn đến bệnh tiểu đường loại 2 và bệnh tim.
5. Đồ uống có đường là nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh tiểu đường loại 2
Bệnh tiểu đường loại 2 được đặc trưng bởi lượng đường trong m.áu tăng cao do đề kháng hoặc thiếu hụt insulin. Vì hấp thụ quá nhiều đường fructose có thể dẫn đến kháng insulin, nên không có gì ngạc nhiên khi nhiều nghiên cứu liên kết việc tiêu thụ soda với bệnh tiểu đường loại 2.
Trên thực tế, uống ít nhất một lon nước ngọt có đường mỗi ngày liên tục có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2.
Một nghiên cứu gần đây, xem xét việc tiêu thụ đường và bệnh tiểu đường ở 175 quốc gia, cho thấy cứ 150kcal đường mỗi ngày thì nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2 tăng 1,1%.
6. Soda có đường không chứa chất dinh dưỡng cần thiết, chỉ chứa đường
Soda có đường hầu như không chứa các chất dinh dưỡng thiết yếu, không có vitamin, không có khoáng chất và không có chất xơ. Soda không bổ sung gì cho chế độ ăn uống của bạn ngoại trừ lượng đường bổ sung quá nhiều và calo không cần thiết.
Soda có đường hầu như không chứa các chất dinh dưỡng thiết yếu
7. Đường có thể gây ra tình trạng kháng Leptin
Leptin, hormone được sản xuất bởi các tế bào mỡ của cơ thể bạn. Nó điều chỉnh số lượng calo bạn ăn và đốt cháy. Mức độ leptin thay đổi để phản ứng với cả đói và béo phì, vì vậy nó thường được gọi là hoóc môn no hoặc đói.
Khả năng chống lại tác động của hormone này – kháng leptin – hiện được cho là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tăng chất béo ở người.
8. Nước ngọt có đường có thể gây nghiện
Nước ngọt có đường có tác dụng như chất gây nghiện. Khi uống nhiều đường có thể khiến não giải phóng dopamine, mang lại cảm giác sảng khoái. Ăn nhiều đường có thể có tác dụng tương tự ở một số người, vì não của bạn hoạt động mạnh để tìm kiếm các hoạt động giải phóng dopamine.
Trên thực tế, nhiều nghiên cứu cho thấy rằng đường và đồ ăn vặt đã qua chế biến nói chung ảnh hưởng đến não của bạn giống như m.a t.úy. Đối với những người có khuynh hướng nghiện, đường có thể gây ra hành vi tìm kiếm p.hần t.hưởng được gọi là nghiện thực phẩm.
9. Tăng nguy cơ mắc bệnh tim
Lượng đường từ lâu có liên quan đến nguy cơ mắc bệnh tim, được chứng minh rõ ràng rằng đồ uống có đường làm tăng các yếu tố nguy cơ đối với bệnh tim, bao gồm lượng đường trong m.áu cao, chất béo trung tính trong m.áu và các hạt LDL nhỏ, dày đặc.
Các nghiên cứu gần đây trên người ghi nhận mối liên hệ chặt chẽ giữa lượng đường ăn vào và nguy cơ mắc bệnh tim ở mọi quần thể
Lượng đường từ lâu có liên quan đến nguy cơ mắc bệnh tim
10. Tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư cao hơn
Ung thư có xu hướng song hành với các bệnh mãn tính khác như béo phì, tiểu đường loại 2 và bệnh tim. Vì lý do này, không có gì ngạc nhiên khi thấy rằng đồ uống có đường thường có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư.
Một nghiên cứu thực hiện ở 60.000 người trưởng thành đã phát hiện ra rằng, những người uống từ 2 cốc nước ngọt có đường trở lên mỗi tuần có nguy cơ mắc ung thư tuyến tụy cao hơn 87% so với những người không uống nước ngọt.
Phụ nữ sau mãn kinh uống nhiều nước ngọt có đường cũng có thể có nhiều nguy cơ bị ung thư nội mạc tử cung hoặc ung thư niêm mạc bên trong tử cung.
Hơn nữa, lượng đồ uống có đường có liên quan đến tái phát ung thư và t.ử v.ong ở bệnh nhân ung thư đại trực tràng.
11. Đường và axit trong soda gây hại cho sức khỏe răng miệng
Soda có đường đặc biệt là lượng đường nước ngọt có ga không tốt cho răng của bạn. Bởi vì thành phần của loại đồ uống này có chứa các axit như axit photphoric và axit cacbonic. Các axit này tạo ra một môi trường có tính axit cao trong miệng của bạn, khiến răng bạn dễ bị sâu.
Mặc dù bản thân các axit trong soda có thể gây ra thiệt hại, nhưng sự kết hợp với đường làm cho soda trở nên đặc biệt có hại. Đường cung cấp năng lượng dễ tiêu hóa cho các vi khuẩn có hại trong miệng, kết hợp với axit, sẽ tàn phá sức khỏe răng miệng theo thời gian.
Soda có đường đặc biệt là lượng đường nước ngọt có ga không tốt cho răng của bạn
12. Nguy cơ mắc bệnh gút tăng lên đáng kể
Bệnh gút đặc trưng bởi tình trạng viêm và đau ở các khớp, đặc biệt là các ngón chân cái. Bệnh gút thường xảy ra khi nồng độ axit uric cao trong m.áu bị kết tinh. Fructose thuộc nhóm carbohydrate chính được biết đến để làm tăng nồng độ axit uric. Do đó, nhiều nghiên cứu quan sát lớn đã xác định mối liên hệ chặt chẽ giữa đồ uống có đường và bệnh gút.
Hơn nữa, các nghiên cứu dài hạn cho thấy soda có đường làm tăng 75% nguy cơ mắc bệnh gút ở phụ nữ và tăng gần 50% nguy cơ ở nam giới.
13. Tăng nguy cơ sa sút trí tuệ
Sa sút trí tuệ là tình trạng suy giảm chức năng não ở người lớn t.uổi. Dạng phổ biến nhất của bệnh Alzheimer.
Nghiên cứu cho thấy rằng, bất kỳ sự gia tăng nào của lượng đường trong m.áu đều có liên quan chặt chẽ đến việc tăng nguy cơ mất trí nhớ. Nói cách khác, lượng đường trong m.áu của bạn càng cao thì nguy cơ mắc chứng sa sút trí tuệ càng cao. Vì đồ uống có đường dẫn đến lượng đường trong m.áu tăng vọt nhanh chóng, điều đó có nghĩa là chúng có thể làm tăng nguy cơ mất trí nhớ của bạn.
Uống nhiều đồ uống có đường có thể có nhiều tác động xấu đến sức khỏe của bạn, bao gồm từ việc tăng nguy cơ sâu răng đến nguy cơ cao mắc bệnh tim và rối loạn chuyển hóa như bệnh tiểu đường loại 2. Thường xuyên uống soda có đường cũng là một yếu tố nguy cơ nhất quán đối với tăng cân và béo phì.